Thành Cổ Loa.
Thành Cổ Loa là di tích lịch sử có từ hơn 2050 năm, là di tích thứ
nhì sau vua Hùng.
Ước nguyện là làm thế nào để đến được các di tích lịch sử từ đời
vua Hùng cho đến các triều đại về sau.
Xin giới thiệu di tích thành Cổ Loa ở Đông Anh - Hà Nội.
Hình hướng dẫn du khách
vào thành Cổ Loa ở Đông Anh.
Sơ đồ thành Cổ Loa, nhìn thì biết thế nhưng thật ra để nhìn toàn cảnh
thành Cổ Loa phải dùng máy bay trực thăng mới thấy được tổng thể của thành vì quá
rộng lớn.
Cổ Loa là kinh đô của nhà nước Âu Lạc, dưới thời An Dương Vương vào
khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên và của nhà nước dưới thời Ngô Quyền thế kỷ
10 sau Công nguyên.
Thành Cổ Loa được xây bằng
đất do thời ấy ở Âu Lạc chưa có gạch nung. Thành có 3 vòng. Chu vi ngoài 8km,
vòng giữa 6,5 km, vòng trong 1,6 km. Diện tích trung tâm lên tới 2 km². Thành
được xây theo phương pháp đào đất đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu,
lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc thẳng đứng, mặt trong xoải để đánh vào thì
khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4-5m, có chỗ 8–12 m. Chân lũy
rộng 20–30 m, mặt lũy rộng 6–12 m. Khối lượng đất đào đắp ước tính 2,2 triệu
mét khối.
Điểm đến đầu tiên khi vào thành Cổ Loa, dọc đường
đông đúc nhà của phố thị là cửa Trấn Nam.
Miếu thờ thần trấn cửa Nam. Thành Cổ Loa có 4 miếu
trấn 4 hướng Đông - Tây - Nam - Bắc.
Qua cửa Trấn Nam rẽ tay phải đến khu di
tích đền thờ tướng Cao Lỗ.
Hình tượng tướng Cao Lỗ ở
giủa hồ, tay dương nỏ Liên Châu.
Cao Lỗ (? - 179 trước Công nguyên) (còn gọi là Cao Nỗ, Cao Thông,
Đô Lỗ, Thạch Thần, hay Đại Than Đô Lỗ Thạch Thần) là một tướng tài của Thục
Phán An Dương Vương, quê quán tại xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh
ngày nay.
Tương truyền, ông là người chế ra nỏ liên châu (bắn được nhiều mũi
tên một phát) mà còn được gọi là Nỏ thần. Ông là người khuyên Thục An Dương
Vương dời đô xuống đồng bằng, tìm đất đóng đô và là người được An Dương Vương
giao nhiệm vụ thiết kế và chỉ huy công trình xây thành Cổ Loa.
Đền thờ Cao Lỗ.
Mũi tên bằng đồng, cổ vật
được tìm thấy tại khu di tích thành Cổ Loa.
Cha đẻ nỏ Thần
Cao Lỗ là người sáng chế ra nỏ Liên Châu (nỏ thần), bắn một lần được
nhiều phát mà các mũi tên đều bịt đồng sắc nhọn. Sử sách cũ đã thần thánh hóa gọi
là: "Linh Quang Thần Cơ". Sách Lĩnh Nam chích quái chép rằng: Cứ
đem nỏ ra chĩa vào quân giặc là chúng không dám đến gần.
Cao Lỗ huấn luyện cho hàng vạn binh sỹ ngày đêm tập bắn nỏ. Vua An
Dương Vương thường xem tập bắn trên "Ngự xa đài", dấu vết này nay vẫn
còn (góc đông bắc ngoài thành nội).
Là người phát minh ra nỏ thần, lại có tài bắn nỏ nên dân gian thường
gọi ông là Ông Nỏ.
Khi Triệu Đà cho quân xâm lược Âu Lạc chúng đã bị các tay nỏ liên
châu bắn tên ra như mưa, thây chết đầy và phải lui binh. Đương thời, nỏ liên
châu trở thành thứ vũ khí thần dũng vô địch của nước Âu Lạc.
Án thờ tiền sảnh, thờ
Bách gia trăm họ.
Án thờ Cao Lỗ ở Hậu
cung.
Qua đời
Triệu Đà bèn lập xảo kế thông gia cho con trai là Trọng Thủy lấy
con gái An Dương Vương là Mỵ Châu. Cao Lỗ phản đối, khuyên vua không nên nhận,
nhưng An Dương Vương không nghe còn nghe lời dèm pha của Lạc hầu. Cao Lỗ dần dần
bị vua xa lánh, ông bỏ đi tìm nơi ở ẩn.
Sau khi Trọng Thủy biết được bí mật phòng thủ của An Dương Vương và
về mách cho vua cha, Triệu Đà mang quân sang đánh. An Dương Vương thua chạy.
Quân Triệu đuổi theo. Cao Lỗ biết tin, ra đón đường chặn đánh quân Triệu cho
vua chạy thoát nhưng do Mỵ Châu tin lời của Trọng Thủy, rải lông ngỗng theo sau
để Trọng Thủy lần theo nên cả hai đã tử trận.
Toàn cảnh đền thờ Cao Lỗ.
Đền thờ Vua An Dương
Vương cách đền thờ Cao Lỗ chừng 150m
Hồ nước trước đền thờ, một
phong cảnh hữu tình nhất của thành Cổ Loa.
Cổng chính của đền thờ
vua nhìn ra hồ nước.
Qua cổng chính là cổng
Tam Quan.
Hình ảnh nhìn từ chánh
điện ra phía trước, thiêt kế gọn gàng, hai bên là hai nhà tả, hữu. Buổi trưa hết
giờ hành chánh cửa điện đóng nên không vào bên trong điện được
Rời điện thờ, ra ngoài
nhìn cảnh hồ thật nên thơ, chụp một bức ảnh góc xa nhìn về ngôi đền.
Dù đã trưa nhưng vẫn tiếp
tục quay lại đền Cao Lỗ, phái sau đền Cao Lỗ là cung đình, nơi hội họp của An
Dương Vương.
Cổng chánh.
Cung điện là một tòa nhà
9 căn, cửa đóng then gài vì quá trưa không mở cửa.
Bên cạnh là miếu thờ Mỵ
Nương.
Án thờ Hội đồng.
Án thờ Mỵ Nương ở Hậu cung, nơi đây âm u thấy rợn
người khi lẻn vào chụp ảnh.
Một góc nhìn về chánh điện.
Một cảnh của hồ nước trước
trước đền thờ rất thơ mộng.
Góc xa nhìn về ngôi đền
thờ vua.
Hình ảnh một đoạn thành Cổ Loa.
Thành Cổ Loa được các nhà khảo cổ học đánh giá là "tòa thành cổ
nhất, quy mô lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch
sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ"
Khi xây thành, người Việt cổ đã biết lợi dụng tối đa và khéo léo
các địa hình tự nhiên. Họ tận dụng chiều cao của các đồi, gò, đắp thêm đất cho
cao hơn để xây nên hai bức tường thành phía ngoài, vì thế hai bức tường thành
này có đường nét uốn lượn theo địa hình chứ không băng theo đường thẳng như bức
tường thành trung tâm.
Nhiều đoạn thành bị cắt
xẻ để làm đường giao thông đi lại từ khu vực nầy sang khu vực khác do mật độ
dân số tăng lên, lập thành hệ thống liên thông giửa là này qua làng khác đã phá
vỡ cảnh quang của hệ thống thành Cổ Loa.
Cửa Trấn Bắc
Vòng thành bị đứt nhiều
đoạn. Cứ thấy giửa cánh đồng có đoạn nào cao, cây cối mọc sum sê thì đó là đoạn
thành Cổ Loa.
Cửa Trấn Tây. Riêng cửa
Trấn Đông không còn vì người dân nơi đó đã san bằng để xây dựng nhà cửa. Thật
đáng tiếc.
Người xưa lại xây thành
bên cạnh con sông Hoàng để dùng sông này vừa làm hào bảo vệ thành vừa là nguồn
cung cấp nước cho toàn bộ hệ thống hào vừa là đường thủy quan trọng.
Hình ảnh sông Hoàng chảy về thành Cổ Loa. Hiện nay tốc độ xây dựng
khu dân cư, làng xóm trong phạm vi khu nội thành đã phá vỡ cảnh quang của khu
di tích, nhà cửa xây cao tầng sát với các khu đền thờ quan trọng nhất của thành
Cổ Loa.